1) Ý nghĩa của bốn chữ “Cửu Huyền Thất Tổ”
Câu hỏi của cư sĩ làm tra quyền của chúng tôi khảo từ điển của bạn Phật học và Hán học, hơn thế nữa, chúng tôi còn nhỏ Đại Đức Thích Minh Nghị hiện đang du học tại Trung Hòa tra khảo giúp nơi tất cả các bộ từ điển lớn của Trung Hòa, nhưng không có nguyên thấy từ các chữ bốn này. Như chúng ta biết, hầu hết các thuật ngữ Hán Việt sẽ được người Việt tiếp thu thông qua cuộc giao lưu văn hoá, tôn giáo Hán – Việt qua nhiều thời đại. Nhưng bon chữ này, chúng tôi nghĩ là làm tất cả các nhà Sư Việt Nam sáng tạo, có thể ông chịu ảnh hưởng văn hoá của Phật giáo Trung Quốc hay Ấn Độ.
Không biết bốn chữ này là xuất hiện trong văn bản nào sớm nhất, nhưng theo Cho biết của chúng tôi, bốn chữ xuất hiện trong tác phẩm Sự Lý Dung Thông viết bằng thể thơ thơ bài hát này thất bát lục của Thiền sư Hương Hải (1728 – 1715) được Tiến sĩ Lê Mạnh Thác đã dày công biên khảo và dịch lại, cho out chung trong Toàn Tập Minh Châu Hương Hải (Nhà Xuất bản TP. HCM, 2000). Phía sau cuốn sách có thể in toàn bộ tác phẩm và ngữ lục của Thiền sư bằng chữ Hán. Tác phẩm Sự Lý Dung Thông (trang 416) là là trong phần phụ lục này, bạn đề cập đến chữ bốn trong hai câu thơ:
“Thích độ nhân miễn tam đồ khổ
Thoát cửu huyền thất tổ siêu phương”
(Ðại ý là giáo lý đức Phật Thích-ca hoá độ sanh của họ để thoát khỏi ba đường khổ :. địa ngục, ngã quỷ và súc sanh, và có thể cứu thoát cửu huyền thất tổ và được siêu thăng)
có might vì câu trên quá cô đọng được bản Việt ngữ của Tiến sĩ Lê Mạnh Thát (trang 392), vẫn được lưu giữ nguyên như vậy, và phần dưới sau Có chú thích ngắn gọn về bốn chữ “cửu huyền thất tổ” like:
“Cửu huyền: Chín đời: Cao, Tang, tổ , cha, mình, con, cháu, trò chuyện, chít Thất tổ :. Bảy đời:. Cao, Tằng, tổ, cao cao, Tang Tang, tổ tổ, cao tổ ”
Mặc dầu trong từ điển, chúng toi không tìm thấy với chữ “huyền” nào có nghĩa là “đời” cả, nhưng qua quá trình Việt Hoá, chữ này được hiểu là “đời”, và có thể được dịch là “thế hệ” thì chính xác hơn.
Chín thế hệ trên, nếu phiên âm bằng chữ Hán thì được viết như sau: Cao – Tằng – Tổ – Khảo – Kỷ – Tử – Tôn – Tằng – Huyền. Như vậy, nếu lấy thế hệ mình làm chính thì tính ngược lên bốn đời và tính xuống bốn đời thành ra chín đời.
Một vị Hoà Thượng mà người viết có thể duyên học hỏi đã giải thích rằng, sở dĩ gọi chữ “Huyền” ở đây vì chữ “Huyền” trong “cửu huyền” Cap này có nghĩa là “đen”, vô lượng kiếp của họ sanh luân hồi sống chết , trên thân xác rã rời này, phân ly, trả lại cho tứ đại, những chất tinh túy xương máu và thịt rã tan, huỷ hoại sẽ Biên thành màu đen được gọi là “huyền”. Bởi chín thế hệ vần xoay, Song chết như vậy được gọi là “cửu huyền”.
Thất Tổ: Là bảy Ông Tố. Tổ là Ông nội của mình đời; đi ngược lên sáu đời nữa gọi là thất tổ.
Như vậy, chữ “cửu huyền” bao quát hơn chữ “thất tổ”. Vì “thất tổ” chỉ cho tất cả các thế hệ đi trước, còn “cửu huyền” không chỉ dành cho những bốn thế hệ trước mà côn nhắc đến Bon thế hệ sau nữa. Chính vì vậy, nơi thờ phụng những vị quá vãng còn được gọi là “Nhà Thờ Cửu Huyền” (viết bằng tiếng Việt), thỉnh thoảng dùng bốn chữ “Cửu Huyền Thất Tổ” (viết bằng chữ Hán). Quý Tăng Ni miền Nam và miền Bắc được sử dụng cụm từ này để chỉ cho nơi thờ ông bà, cha mẹ mình nhiều đời, nhưng không pho bien rộng rải, các vị thường dùng từ “hương linh” chỉ có khuất, và nơi thờ tất cả các hương linh ấy được gọi là “bàn linh”. Các tịnh xá thuộc hệ phái khất Sĩ dùng từ “Cửu Huyền” hoặc cả hai “Cửu Huyền Thất Tổ” chỉ cho người dùng thờ nơi có vãng quá.
2) “Cửu Huyền Thất Tổ” trong nền văn hoá Việt Nam
Theo cách nhìn tổng quát, văn hóa có hai phần đặc trưng, đó là văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần. Nền văn hóa vật chất bao gồm các lĩnh vực thuộc khoa học kỹ thuật. Văn hóa tinh thần bao gồm các lĩnh vực thuộc học thuật, tư tưởng, tôn giáo và các loại hình giải trí, nghệ thuật
Cách biểu hiện lòng tôn trọng, ơn nhớ và biết ơn ông bà cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp qua việc thờ cúng của người Việt Nam thuộc loại hình văn hoá tinh thần. Cách tôn kính, thờ cúng này không phải là ra khỏi Việt Nam mới có, mà là từ thuở nhà Hạ (2183-1752 trước TL), Thương / Ân (1751-1112 trước TL), Chu (1111 – 249 trước TL) bên Trung Hòa đã nghi lễ thờ cúng ông bà tổ tiên rồi. Các vua chúa thường đi tế Giao (cúng trời đất) ra khỏi một nơi được xem là linh thiêng, hoặc cúng tổ tiên trong Thái Miếu. Nền văn hoá Việt Nam thời cổ trung đại và cũng vậy. Các vua chúa thường đi cúng tế nơi Thái Miếu, nơi đền thờ các vị khai quốc công thần. Còn người dân dã thì thường thờ ông bà cha mẹ tại nhà và làm lễ cúng giỗ hàng năm.
Điều đáng nói ở đây, là nền văn hoá tinh thần đã được duy trì, phát huy và thấm sâu vào lòng dân tộc Việt Nam dù trải bao biến thiên lịch sử. Không phải đất nước nào cũng duy trì được nền văn hoá quý báu này. Trung Hòa, một trong 3 cái nôi văn Minh nhân loại thời cổ, cho đến khi Cách Mạng Tân Hợi năm 1911 thì nền văn hoá tinh thần bị hạ bệ, nhất là giai đoạn “Cách Mạng Văn Hoá” thì tinh thần “ăn trái nhớ kẻ Trong cay “,” uống nước nhớ người đào giếng “hoàn toàn bị xoá sổ, nhưng thay vào đó là nền văn hoá của” Mao Chủ Tịch “.
Ðại Ðức Minh Nghị đang du học bên Trung Hoa Kẻ Chợ nghe của chúng tôi, khắp đại lục Trung Hòa không có được một nhà có bàn thờ ông bà cha mẹ của mình. Vào nhà chỉ thấy hình của bác Mao Trạch Đông thôi! Các chùa chien nó sẽ không tìm thấy với nhà thờ “Cửu Huyền Thất Tổ” hoặc “Vang Sinh Dương”, thậm chí một số chùa chien đều không tìm thấy với nhà thờ Tổ (Tổ đường). Khái niệm “thờ cúng” ông bà cha mẹ gần như bị lãng quên và họ con cho đó là một nghi thức “cổ lọ xỉ”. Hộ cho rằng “thờ cúng” là một hình thức mê tín dị đoan, nên có cực lực loại bỏ! Thế là toàn bộ nền văn hoá “Ẩm thuỷ tư nguyên” (uống nước nhớ nguồn) tốt đẹp mấy ngàn năm, một truyền thống hiếu thảo “phụ hề sanh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai mẫu phụ, sanh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hiệu thiên võng cực “(Kinh Thi) [1] có từng làm xúc động bao con tim của bao thế hệ, nay không còn duy trì nữa. Thật buồn thay cho một nền văn hoá cần được điều dày nhất nhì trong lịch sử văn Minh nhân loại, và cũng là một nền văn hoá được giá đánh là tôn trọng chữ hiếu bậc nhất trong lịch sử nhân loại, thế mà ngày nay lại thiếu vắng tinh thần ân tri và báo ân!
May mắn thay, văn hoá Việt Nam, mặc dù trải bao thăng trầm lịch sử, nhưng đạo lý: “Sang đò nhớ ơn người chèo chống, đằng sau võng nhớ ơn người mắc dây” hoạt động được khắc sâu trong tâm Kham người Việt, vẫn ấm áp trong tiếng hát hoi ru con muôn thuở:
“Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha
Thầy Thích Giác Hoàng
Theo http://www.buddhismtoday.com/viet/hopthu/cuuhuyen-thatto.htm